Trích : Giai thoại về Tử Vi đời Tống


Vua Tống :
- Trẫm có một thắc mắc : Trong cùng một giờ, một ngày, một tháng, một năm, có hàng vạn vạn người sinh ra, không lẽ cuộc đời họ cũng giống nhau ư?

Tây Sơn lão nhân :
- Bệ hạ hỏi thực phải. Điều này có chép trong Tử-vi kinh, nhưng bệ hạ không ngự lãm mà thôi.

Nhà vua cầm cuốn sách lên:
- Trẫm đã đọc kỹ, đọc đến thuộc làu, mà không thấy đoạn ấy. Đạo-sư chỉ cho biết vấn đề này chép ở chương nào.

- Xin bệ hạ mở trang đầu, bài phú Tử-vi cốt tủy, sẽ thấy.

- Quả thực trẫm sơ ý. Khi mở sách, trẫm đọc ngay chương nhất, mà không đọc phần tựa. Thì ra tổ chép ở đó.

Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung.
Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan,
Thị tại vận hành hung cát.

À, hai câu này trẫm có đọc qua, mà không hiểu rõ cho lắm.

- Không phải mình bệ hạ, mà hầu như những đệ tử Hoa-sơn đời sau, khi xem số đều chỉ chú ý đến những cung Mệnh, Tài, Quan cùng vận hạn. Ít người chú ý đến cung Phúc cũng như cung Tật-ách. Cái chìa khóa khoa Tử-vi là câu này.

- Trẫm chờ đạo-sư chỉ dạy.

- Tâu bệ hạ, cung Phúc rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến ba cung Phu-thê, Tài-bạch, Thiên-di là lẽ đương nhiên. Nó gần như khống chế toàn cuộc đời về: Giầu-nghèo, thọ-yểu, sang-hèn, vinh-nhục, sầu-thảm và khổ-cực. Tùy theo cung Phúc tốt hay xấu mà biết đương số giầu hay nghèo, sống lâu hay chết yểu; sang hay hèn, sang cũng có nghĩa làm quan lớn, có danh tiếng hay không? Tức có vinh không? Rồi cuộc đời bi-ai hay toại chí đắc thế?

- Không ngờ cung phúc quan trọng như vậy. Nhưng trẫm vẫn chưa hiểu rõ hơn về những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm.

- Tâu bệ hạ, cung Phúc bao gồm nhiều yếu tố cuộc đời. Mà cung Phúc lại ứng vào với ngôi mộ mà đương số được hưởng phúc.

- Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin đạo-sư lấy một vài lá số làm tỷ dụ.

- Vâng, thần xin lấy số của Chiêu-văn quan đại học sĩ Vương Tăng cùng với số của Kinh-lược sứ Quảng-Tây lộ Vương Duy-Chính. Cả hai cùng sinh vào giờ Tỵ, ngày hai mươi tháng sáu năm Bính-Tý. Thế nhưng cuộc đời hai vị hoàn toàn khác nhau về chi tiết, nhưng đại thể thì giống nhau.

- Ừ nhỉ, khi bổ nhiệm hai người, trẫm đều xem qua số trước, nhưng trẫm sơ tâm không chú ý đến hai người cùng một số. Cả hai người cùng đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần. Đồng, Lương thủ mệnh, thêm Mã, Lộc, Tang, Hình, Tam-thai. Đồng, Lương là cách làm quan, nhưng đắc cách cực tốt Lộc, Mã giao trì. Tử-vi kinh nói Lộc, Mã giao trì, kinh nhân giáp đệ. Nên hai người tuy thi hai khóa khác nhau, mà cùng đỗ cao cả. Thời thơ ấu của Tăng thì yên ổn, nhung lụa. Còn thời thơ ấu của Chính thì khổ cực đến phải đi làm nô bộc. Cả hai cùng bị người anh ngu si, dốt nát, lêu lổng ghen tỵ, đánh đập. Cả hai năm trước đây vợ đều chết. Tăng tục huyền với con nhà danh gia. Chính tục huyền với con nhà bần hàn. Tăng làm quan tại triều, Chính trấn ngự Nam-thùy.

- Thần xin giải cái khác nhau đó. Cả hai vị cung Phúc-đức do Thái-dương thủ, ngộ Triệt, gặp Kiếp, Đà. Thái-dương chỉ vào ngôi mộ ông nội. Ngôi mộ ông nội của Tăng để vào đầu mỏm núi, hướng ra vòm sông, cảnh trí rất dẹp, giống như ngồi trong cái nghiên bút. Thế đất đó trong khoa Địa-lý gọi là Bút mặc, văn giai. Còn mộ ông nội Chính để vào khu ruộng trũng, phía trước có cồn dâu, trên cồn có tượng thờ hổ đá. Thế đất đó gọi là Bạch-hổ tọa trấn. Vì vậy Tăng thi đậu sớm, làm quan tại triều, chức tới tể thần, ngoài ra còn lĩnh Khu-mật-viện sứ. Còn Chính thi đậu trễ hơn mấy năm, gốc là quan văn, sang làm quan võ, hay Tử-vi kinh gọi là Xuất võ do văn .

Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Cả hai người, đều đắc cách Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương đến hai lần. Vì vậy Chính lĩnh kinh lược sứ Quảng-Tây, trấn Nam-thùy. Còn Tăng tuy ở triều, nhưng trong Khu-mật viện, y lĩnh trọng trách Nam-phòng cũng giống như trấn ngự biên cương.

- Trẫm tưởng chỉ một lần thôi chứ. Hai người cùng có cách Kình-dương cư quan tại Ngọ, là Mã đầu đới kiếm.

- Tâu bệ hạ, Thiên-hình, Thiên-mã thủ mệnh tại Dần cũng là cách Mã-đầu đới kiếm. Nhưng vì ngôi mộ ông nội của Tăng thiên về văn, nên tiến trình của Tăng văn nhiều hơn võ. Còn ngôi mộ ông nội Chính thiên về võ nhiều hơn văn, nên ngôi sao võ có dịp nổi dậy.

Lão nhân ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
- Hồi thơ ấu, đức Thái-Tổ có người bạn tên Chu Năng. Hai người cùng số Tử-Vi. Cung Phúc-đức có Tham-lang tại Tuất. Ngôi mộ ứng với Tham-lang của đức Thái-Tổ kết phát nên người lập được nghiệp rồng. Còn ngôi mộ ứng với cung Phúc của Chu Năng ở vào chỗ cùng cực xấu, nên Chu cũng sáng nghiệp bằng cách qui dân lập được mấy ấp, được tôn làm hương trưởng, rồi sau khi chết được tôn làm thần Thành-hoàng. Đó bàn về phúc. Cung Phúc-đức bao gồm phần phúc và đức. Hai người cùng một số, nhưng tổ-tiên, ông-bà, bố-mẹ, và bản-thân xây dựng cái thiện-đức, thì đương số được hưởng phú, thọ, quý, vinh nhiều hơn. Phần yểu, bần, ai, khổ giảm. Còn như tiền nhân gây nhiều ác-đức, thì phú, thọ, quý, vinh giảm; mà yểu, bần, ai, khổ tăng.

Nhà vua hiểu ra:
- Như vậy những người cùng số, có cuộc đời hao hao giống nhau. Nhưng tùy theo ngôi mộ ứng với cung Phúc-đức táng ở thế đất kết hay bại, mà phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ khác nhau. Bây giờ tới vấn đề khác. Như số những người chết một lúc như chiến-tranh, đắm thuyền. Không lẽ số những người đó đều đến ngày ly thế cả hay sao?

- Tâu bệ hạ, trong Tử-vi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:
Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.

Nhà vua suýt xoa:
- Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực. Đó là vận con phải thua vận cha.

- Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.

- Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm. Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết, nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều người chết.

Nguồn : tuvilyso.net



Luận Cung Phúc Đức 

Khởi ngược theo thiên bàn Tử Vi bắt đầu từ cung Phúc Đức,theo liền sau Phúc Đức là cung Phụ Mẫu,rồi tới cung Mệnh và tiếp sau là cung Bào,cung Phu Thê,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền trạch,rồi lại về cung Phúc Đức cứ thế tuần hoàn,đủ thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cung Phúc Đức chi phối cà 11 cung số khác trên thiên bàn Tử Vi.

Phúc Đức là cung kép,Đức chỉ phần sinh tồn sinh lý,bao gồm dương trạch,quan lộc,tài bạch,Thiên di,phần thọ yểu,tật ách của bản thân đương số và những người liên quan như vợ con,họ hàng.Những ảnh hưởng đó đều do đạo lý,cách sống của đương số,tàng ẩn ý nghĩa tu thân tích thiện đức,để phúc mai hậu cho con cháu.Chữ Phúc chỉ phần âm,bao gồm cội nguồn,mộ huyệt,đức tin.Vì vậy,khi xem xét cung Phúc Đức,phải định hướng mạch lạc rõ ràng hai phần Phúc (âm phần) và Đức (dương thế) trước mọi luận đoán.Trình tự như sau :

1.ÂM PHẦN
A.Định vị Âm phần
* Cung Phúc Đức an tại cung nào thì cung đó gọi là cung chính mộ.Thí du,an tại Dần,thì cung chính mộ của đương số ở sơn Dần,thuộc Mộc 
* Cung Sửu và Mão là hai cung giáp trước và sau của chính mộ Dần,cung Mão (đàng trước theo chiếu thuận) gọi là cung Tả mộ (mặt trước),cung Sửu ( đàng sau theo chiều nghịch) gọi là cung Hữu mộ (mặt sau).
* Cung xung chiếu chính mộ là cung Thân gọi là cung Tiền án.
* Hai cung Ngọ và Tuất trong tam hợp Dần Ngọ Tuất,cung Ngọ gọi là Thanh Long, cung Tuất gọi là Bạch Hổ.Thanh Long chỉ dòng tộc dương và bạch Hổ chỉ dòng tộc âm.

B.Ảnh hưởng của Âm phần
* Cung chính mộ cư cung nào là hành của cung đó.Hành mộc ý nghĩa Sinh, Dưỡng,Tự trọng.Hành kim ý nghĩa An Toàn.Hành Hỏa ý nghĩa Thành Tích.Hành thổ ý nghĩa Sinh tồn,Sinh lý.Hành thủy ý nghĩa Giao tiếp.Từ ý nghĩa hành của chính mộ luận sự thụ hưởng phúc của đương số.
* Cung Phúc Đức có một chính diệu tọa thủ,chính diệu ấy chính là sao cai quản ngôi mộ đó.
* Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ,trường hợp hai chính diệu cùng một hành,tức là có hai ngôi mộ ở gần nhau,cùng chi phối ảnh hưởng tới đương số.Ví dụ : Cung Phúc Đức có Cự Đồng tọa thủ đồng cung.Cự,Đồng đều hành thủy,nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú bác (Cự Môn) và ngôi mộ tổ (Thiên Đồng) để ở gần nhau.
* Cung Phúc Đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,trong đó có một chính diệu sinh Bản mệnh,đương số chịu ảnh hưởng của ngôi mộ sinh hành mệnh đó.Ví dụ,Cung Phúc Đức an tại Dần có Cự Nhật đồng cung,bản mệnh thuộc thổ.Như vậy,Cự Môn,mộ chú bác,hành thủy,không sinh được thổ.Còn Thái Dương, tượng ông nội,cụ nội,hoặc cha,hành hỏa sinh được bản mệnh thổ.Đương số chịu ảnh hưởng của sao cai quản ngôi mộ.
* Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,đều không sinh được bản mệnh,thì bản mệnh sinh đựơc chính diệu nào là chịu ảnh hưởng của chính diệu đó.Ví dụ,cung Phúc Đức cư tại Mão do Cự,Cơ cai quản,bản mệnh hành kim. Như vậy cả Cự Môn (thủy,chú bác) và Thiên Cơ (mộc,ông nội) đều không sinh được bản mệnh kim,trong khi bản mệnh kim lại sinh được Cự Môn (thủy),nên bản mệnh chịu ảnh hưởng của sao Cự Môn (mộ chú bác).
* Cung Phúc Đức có hai chính diệu đồng cung,mà không chính diệu nào sinh bản mệnh hoặc ngược lại,thì phải xem xét chính diệu nào bình hòa với bản mệnh, chính diệu đó ảnh hưởng đến bản mệnh.
* Cung Phúc Đức Vô chính diệu,thì coi chính diệu của cung tiến án như chính diệu tọa thủ.

C.Chính diệu định thế Âm phần
* Mộ tổ : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang,Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.
* Hình sắc và thế đất : Tử Vi,Thiên Phủ,thế đất to lớn,gần núi đồi,với Tử Vi,linh khí từ tay trái triều lai,với Thiên Phủ triều lai tay phải.Thiên Đồng,đất trũng,xung quanh có nước.Vũ khúc,đất cao trơ trọi có hình như quả chuông dựng đứng.Tham Lang,đất nổi cao,cây cối rậm rạp.Thiên tướng,đất nổi cao vuông vắn như hình cái ấn.Thiên Lương,đất rời rạc,như hình con thoi,ở gần đường đi lối lại.Thất sát,đất khô nóng,có sắc đỏ.Phá Quận,đất không hình thể,rối rắm.
* Mộ ông nội : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.
Thiên cơ,đất tốt,cây cỏ rậm rạp,tươi xanh.Thái Dương : Đất bằng phẳng.Thái Âm,thế đất hơi cao,chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.Liêm trinh,đất khô cằn,gồ ghề,nổi cao như hình người ngồi,lại có sắc đỏ hay vàng.Cự Môn,đất vuông vắn,thường ở gần dinh sở hay lâu đài,đào sâu,dưới có lớp đất mầu vàng.

2.DƯƠNG THẾ
Hung hay Cát của âm phần,bản Mệnh không có cơ may chỉnh sửa,buộc phải chấp nhận,tuy nhiên không chấp nhận một cách tiêu cực,tuy cho phần số an bài,mà chấp nhận một cách tích cực bằng việc tu thân cho cát tường phần đức (dương thể) để tích phúc,sinh dưỡng và làm thay đổi số phận,thụ hưởng cát tường.Tu thân là đạo sống cho dù Phúc cung cát hay hung.Trước hết,hãy bình tâm,vô tư,nhìn vào các diệu tinh cư Phúc cung mà chiêm nghiệm hung cát,sau đó tự mình rèn luyện tu thân hữu hình được hỗ trợ bới các sức mạnh vô hình.

A.Ảnh hưởng của các sao tọa thủ Phúc cung
* 14 chính tinh
Đây là nhóm sao quan trọng bậc nhất trong việc định giá phúc cung.Trong số 14 chính tinh này,thì nhóm chính tinh thuộc nhóm mộ Tổ,xa với đời sống hiện tại của bản mệnh,bao gồm : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang, Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.Và nhóm mộ Ông Bà,Cha mẹ, Chú Bác,gần với đời sống bản mệnh,bao gồm : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.Phân biệt vậy để biết rõ nguồn cội của phúc và ảnh hưởng gần,xa của mộ huyệt với bản mệnh. Từ đó luận hung cát.Hung cát chi phối mạnh nhất trên ba lịnh vực : Thọ yểu, không gian lập nghiệp và thành tựu lập nghiệp.

* Các trung tinh ảnh hưởng Phúc cung
Các trung tinh : Tả Hữu,Long Phượng,Xường Khúc,Khoa Quyền Lộc,Lộc Tồn, Khôi Việt...được coi là các trung tinh thiện chí,nếu miếu vượng,đắc địa tất phò cho phúc cung cát lợi,trường hợp hãm,bại địa cũng không gieo rắc họa hại cho phúc cung.

Các trung tinh không thiện chí,đặc biệt hai nhóm sao Lục sát (Kình,Đà, Không,Kiếp,Hỏa Linh) và Lục bại ( Riêu Kỵ,Song hao,Tang Hổ),dù miếu vượng hay hãm bại cũng đều khiến phúc cung suy nhược.Trường hợp miếu vượng,thì hại phúc bản mệnh thời gian Mệnh (30 năm tiền) sau đó cát phúc cho bản mệnh thời gian Thân (30 năm hậu).Trường hợp Lục sát,Lục bại xấu hãm,kể như là phúc bạc,cả đời gian nan vất vả,không đựơc vừa ý hài lòng.

Các trung tinh,bàng tinh khác,khi hội hợp với nhau thành cách cát hoặc cách hung,có năng lực dịch biến Phúc cung,nhưng đó chỉ là những biệt cách,phải căn cứ vào cách cụ thể để xem xét.Ví dụ : Thiên Phủ độc thủ Phúc cung hội với Tam Không là cách vô cùng xấu hãm.Hoặc,Tham Vũ cư Phúc cung tại Sửu Mùi,gặp sao Hỏa hoặc sao Linh,là cách phúc cát,tăng thêm tuổi thọ,công danh hiển đạt,quyền quí.

B.Tu thân dưỡng Phúc
* Tu thân nguồn cội : Đạo lý sống uống nước nhớ nguồn.Chăm sóc mộ huyệt dòng tộc,tổ tiên.Hiếu nghĩa với ông bà,cha mẹ.
* Tu thân đức tin,sống thuận lý với hoàn cảnh,môi trường,thường nhật tích thiện đức để dưỡng phúc.


http://www.lyso.vn/diendan/viewtopic.php?f=34&t=15959

http://mocay.org/forum/viewtopic.php?f=59&t=1770