Khi yêu các nàng trong tử vi

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Lương: ôi, thiên lương nàng ơi, có thể trẻ con, có thể nhí nhảnh, cũng có thể thâm trầm. Chứ trong tình yêu thì kín tiếng vô cùng. Với Thiên Lương, phải kiên trì, phải nhẫn nại, phải tán liên tục và bền bỉ. Nàng thích trong lòng, sướng trong lòng rồi đó, nhưng ứ chịu nói ra đâu. Độ gan lì của cái miệng phải nói là bậc nhất.
Tán được rồi à, đừng tưởng thế là xong, vì các nàng vô tư lắm. Có thể hay cười, hay nhí nhảnh, hoặc hay tâm tư, nhưng các nàng chẳng biết quan tâm chăm sóc, chẳng hỏi han từng tí một đâu. Các chàng tự mà làm những việc đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thái Âm: nàng ta ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi. Dù sao thì Thái Âm cũng chỉ yêu bản thân nhất mà. Thái Âm chung tình nhưng đòi hỏi sự quan tâm khắt khe, khó chiều lắm.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Đồng: trẻ con, tình cảm tùy hứng. Chẳng có gu cụ thể. Cũng chẳng phải người nặng tình. Thích tùy hứng, bỏ cũng tùy hứng. Và cực kì dễ thích. Thế mới hay. Thiên Đồng chủ động lắm, nhưng hãy cẩn thận. Vì cũng thực tế, cũng tính toán lắm. Nhị hợp Tham Lang mà.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thất Sát: yêu theo bản năng, dễ đoán. Không thích là thẳng thừng, đừng có mơ nhiều, cũng chẳng có chút cơ hội nào đâu. Lỡ yêu Thất Sát thì cứ nên hỏi thẳng 1 câu: em ơi, em yêu anh không để anh còn biết đường, không yêu thì anh chuồn luôn.
Kể ra cũng là sướng chứ đâu phải là khổ. Chẳng mấy người đau tình vì yêu đơn phương người Thất Sát.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Cự Nhật: ờ, thì nàng chẳng biết gu của nàng là Thái Âm hay Thiên Đồng. Mà nàng còn kết mấy anh chàng Thiên Phủ nữa kìa. Mấy anh Thiên Phủ cứ lo đi cung cúc các nàng, mà không biết rằng, các chàng chẳng bao giờ có cơ hội.
Các chàng Thái Âm và Thiên Đồng thì cứ chờ đi. Vì Cự Nhật nhìn thế mà ngu ngơ lắm, mộng mị lắm, chẳng nhìn ra bản chất của các chàng đâu. Chờ làm chồng các nàng thì được, chứ chờ làm ny các nàng thì mệt mỏi đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Tướng: đơn giản thôi, chẳng bao giờ chiếm trọn được trái tim nàng ta. Trái tim nàng đa ngăn lắm, yêu vài anh, lại thích vài anh, cảm tình vài anh, và kết vài anh nữa. Nói chung Thiên Tướng rất dễ thích, rất dễ yêu.
Mà Thiên Tướng lại đa mang lắm, lại bền chặt và tốt bụng lắm. Nên anh nào lỡ yêu 1 người Thiên Tướng đã có ny thì cứ tập xác định là đau khổ. Vì 90% nàng ta sẽ có cảm tình với mình, nhưng lại không thể bỏ ny để theo mình được :)).

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Vũ Khúc: các nàng không có gu cụ thể. Nhưng có tiêu chí, đó là các nàng rất ham tài. Cứ chàng nào giỏi giang, thông minh, có đầu óc là các nàng mê. Tài thật, chứ chẳng chấp mấy cái tài vặt tài lẻ đâu. Các nàng thực tế lắm, nên cũng chẳng cần mấy thứ màu mè trẻ con đâu.
Yêu các nàng Vũ Khúc, chí phải lớn, đầu phải mạnh, và túi tiền cũng dày 1 tí. Đối với các nàng Vũ Khúc, các nàng không phân biệt được tình yêu, hay chỉ là sự mến mộ tài năng. Đó chắc là cái khổ.
Vì thế chẳng biết nàng sẽ bỏ mình lúc nào đâu. Đừng trách các nàng, chỉ trách mình kém cỏi mà thôi.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Tham Lang: Tham Lang tuy tính toán, nhưng có cái hay là các nàng rất bản năng. Yêu là hết mình. Hứng là yêu. Yêu bất chấp mọi thứ. Nên tính toán thì tính toán. Vẫn chỉ là thứ yếu với các nàng.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Phủ: trai Thiên Phủ trầm ngâm, chứ gái Thiên Phủ thì mạnh bạo lắm. Vậy nên gái Thiên Phủ rất dễ tiếp cận, rất dễ gần, nhưng yêu thì hơi khó. Vì nàng yêu ai nàng chủ động luôn, chẳng cần chàng tốn sức đâu.
Nhưng khó chịu hơn, các nàng Thiên Phủ rất biết cách quan tâm chăm sóc, kể cả với bạn bè. Cái độ quan tâm với bạn bè thì chẳng khác gì với ny cả. Nên ai lỡ yêu đơn phương 1 nàng Thiên Phủ, thì cứ đau ơi là đau, vì thoát thì không thoát được, mà tiến cũng chẳng tiến được.
Còn chàng nào may mắn mà làm ny của 1 nàng Thiên Phủ, thì cứ phải xác định là hạ máu ghen đến mức tối đa. Nếu không là suốt ngày phải ghen với các bạn của nàng đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Cơ Âm: Cơ Âm Dần Thân, nhị hợp là Vũ Phá. Vậy nên các nàng dễ bị thu hút bởi những anh chàng ngầu ngầu, bụi bụi, lạnh lùng mà có nét hoang dã. Khổ cái những chàng như thế bất cần đời lắm, chẳng để ý các nàng Cơ Âm đâu, làm cho Cơ Âm phải khổ. Ai yêu Cơ Âm thì nhìn vào cũng thấy xót xa mà chẳng làm gì được. Cơ Âm không thích người nói nhiều đâu. Người nói nhiều, thích tâm sự thì chỉ làm anh trai của Cơ Âm mà thôi.
Cơ Âm kén chọn lắm, lại có chút ích kỷ nữa. Anh nào kiên trì thì chắc cũng tán được. Cơ Âm không cần quan tâm nhiều đâu, nhưng phải đúng lúc. Cơ Âm cũng không phải lãng mạn đâu, ny phải giỏi giang. Trí tuệ kém hơn Cơ Âm là Cơ Âm không thích đâu.

Mà yêu Cơ Âm là không được thất hứa. Vì sao à, vì Thái Dương cung Phu kìa. Lỡ thất hứa 1 lần, mất niềm tin 1 lần, là không bao giờ chiếm trọn được trái tim của Cơ Âm nữa đâu.

Lá số tử vi những người nổi tiếng

(trích từ sách tử vi nghiệm lý - lý mệnh học của cụ Thiên Lương)

Phật Thích Ca
một vị đại hùng đại lực đại bi


- Thưa Tiên sinh, sau một thời gian theo dõi đọc Khoa Học Huyền Bí nhất là số ngày 15-10-1973, vừa rồi, tôi đánh bạo đến đây cầu mong tiên sinh chỉ bảo cho biết thêm về tử vi.
- Bạch đại đức, hôm nay Đại -Đức chiếu cố đến thật là vinh dự cho tôi, biết đâu sau khi ra về Đại - Đức sẽ thấy thất vọng, cái tôi chỉ là thiểu học không căn - bản. Sở dĩ tôi dám mạo muội trình vày ý kiến không ngoài mục đích tìm thầy mở lối.
- Xin tiên sinh đừng quá nhún nhường, tôi thật tình là một người tìm học Tử Vi, hôm nay có mang theo một lá số mà tôi có công sưu- tầm theo sự hiểu biết của tôi, mong tiên sinh giải đáp cũng như những lá số tiên sinh đã phân tích đã phân tích lâu nay trên Khoa Học Huyền bí để làm thước ngọc khuôn vàng cho mức học của tôi. Không nói ra, chắc sao khi xem, Tiên sinh cũng biết đây là số của Đức Thế -Tôn mà đời tôi đã trao trọn theo giáo thuyết của ngài. Căn cứ theo năm sanh của ngài là năm trước dương lịch ( Mậu Tuất), lấy ngày 08 tháng tư giờ Ngọ để lập thành, mong rằng tiên sinh cứ trung thực thử phân tích may ra tôi được thêm phần nào ánh sáng.
……………………….
Sau cuộc tiếp chuyện với vị Đại Đức không quen biết, không dám phụ lòng người đa thành thật chiếu cố, để đền đáp công người đến tận nhà khuyến khích. Được biết lá số của Đức Phật, tôi cố tìm kiếm những điểm chính nào mà Ngài đã hơn người là tuệ giác.
- Tuổi Mậu Tuất, mệnh thân đồng cung tại Hợi, ở vị trí sáng suốt cùng với thiên địa cảm thông, như người có sứ mạng, có sự đồng minh của thiêng liêng để dìu dắt nhân loại ( Thiếu Dương được Hồng Đào Hỉ). Thiên Không đây mới thật vấn đề tài tình. Ở vị trí Dần Thân Tỵ Hợi, Thiên Không phải phụ thuộc Hồng Loan, dầu đồng cung hay xung chiếu, là bản tính của người không ham phù vân, tự tu tự tỉnh biết trọng cái lý công bằng thiên nhiên, hễ vay là phải trả, muốn là phải khổ, mọi sự vật đều là không, là chân lý vô thường của nhà Phật, là chân lý thường diễn biến hàng giờ hàng phút, tất cả không có gì là không biến dịch từ cái sinh đến cái diệt cứ liên tục thay nhau bất tận của cái thế luân hồi.
- Phủ phùng không là cái phủ trống rỗng, là cái không có gì, ngay cái mệnh của Ngài coi cũng là Không, thiết tưởng Hồng – Lộc xung chiếu, Ngài còn thiết gì mà không ngăn cách bằng Tuần, huống chi Hồng Lộc là miếng mồi ở trong có thuốc độc (Hà-Sát) với Ngài là bậc tuệ giác làm sao mà không coi thường gạt bỏ.
- Thiên Không đã tài tình mà Cô Thần ở đây không kém phần đặc sắc. Người ta thường nói Nam kỵ Cô, nữ kỵ quả thì lý đương nhiên là người cô quạnh cho đến cả vợ con ruột thịt đồng bào nhân loại đại –đồng, dầu Đông hay Tây, Nam hay Bắc dưới tệ nhãn của Ngài (Thiếu Dương Thiên-Hỉ) đều là con người nay kiếp này, mai kiếp khác cũng như nhau, Ngài vẫn một tình thương âu yếm nhân hậu ( Thiên-Đức, Nguyệt –Đức, Long- Đức, Phúc-Đức).
- Khoa, Đào, Việt, Tả Hữu là vạn năng của Phật, dầu ở khía cạnh nào vẫn là tập trung ở cái nhân tứ đức, cái tuệ- giác quán thông của Ngài cùng trời đất( thân mệnh đồng cung).
- Thiên tướng cung Quan ở Mão là Thiên Tường hãm, nếu là tuổi khác không được Thiếu-Dương, không được Tứ-Đức, có lẽ đây là 1 ông thầy tướng số có hạng. Với Đức Phật như lá số này (Mậu-Tuất) chỉ là một thầy tu khiêm tốn không quyền uy, không ép buộc, không khuyến dụ ai phải theo mình, ai hỏi thì nói, nói rồi coi cũng như không nói. Thiên Tướng đây có tính cách bình dân muốn để quần chúng tự ý giải thoát mình, chứ Ngài không muốn cho mình là người sáng ban phát ơn-huệ cho ai là người mê muội. Cái phẩm chất của Thiên Tướng (Mão Dậu) nó đã giản dị cặp thêm thiên quan có ý nghĩa thông cảm trời cao (Dương), Thiên-Phúc đất rộng (Âm) là sứ mạng của người thông đạt lý lẽ âm dương muốn mọi người hết mê để tự mình thành Phật hết cả.
- Nó thong thả tự do tự mình cởi mở lấy mình, ngay cả những lời Ngài nói đừng có tin ngay. Chứng nào thấy chắc chắn có giá trị thì hãy theo cũng có nghĩa căn bảo người ta chớ đừng sùng- tín dễ dàng để rồi dễ thành thành –kiến sai lạc cho học thuyết luân lý hay tôn giáo.
- Căn cứ theo số này người Dần Ngọ Tuất vận hành đến Tỵ Dậu Sửu là phải khắc phục và bị sa lầy, biết rằng Ngài giác Ngộ từ năm 29 tuổi và dấn thân vào khổ hạnh hành xác mất 6 năm tức là ở giai đọan 22-31 mất 3 năm chót và 3 năm đầu ở giai đọan 32-41. Ngài đắc đạo năm 35 tuổi thành một vị thế tôn. Ở vị trí Quan-Phù, Thai-Tuế, Bạch Hổ cùng ảnh hưởng của Thái Dương ở Dần là mặt trời ló dạng ở Chân trời, rồi từ đó mà đi cho đến ngày tịch ở tuổi 80 ở cung Ngọ được Nhân loại tôn sùng kính bái cho đến ngày nay trên 2.500 năm.
- Đời Đức Thế Tôn Thích Ca dĩ nhiên Ngài thành Phật là ở chỗ Tuệ-giác hơn người ( thân mệnh đồng cung ở vị trí Thiếu Dương, Thiên-Hỉ hội đủ Tả Hữu, Khoa,Đào, Việt, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức, Phúc Đức và cả bộ Thiên Quan, Thjên Phúc) mới dứt bỏ được địa vị cao sang, vợ đẹp con khôn phải là một người hùng, không ỷ lại vào đâu để tìm chân lý là người có nghị lực, song rồi chỉ có một hoài-bão sao cho nhân loại được giải-thoát trần ai khổ ải là đại từ bi.
- Bạch Đại Đức theo lá số này, cứ như thiển kiến của tôi, có lẽ hình ảnh Đức Thế Tôn có phần in đúng, thì dĩ nhiên sự giác ngộ sâu rộng của Đại Đức đã tiến gần Đức Thế Tôn. Vậy để tạ lòng chiếu cố, tôi xin tóm tắt trình Đại Đức, không dám nào đánh trống qua cửa nhà sấm.
Nam mô a di đà phật
Năm Mậu Tuất ngày 08 tháng 4 giờ Ngọ
Dương lịch 26 tháng 05 lấy năm 1958 (tạm) ^_^ giờ ngọ.
( cón típ)
Một số lá số vô chính diệu đắc cách :
Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
Hưng-Đạo-Vương là tước vị của hoàng thân Trần-Quốc-Tuấn, một vị danh tướng nhà Trần có chiến công không kém phần quan trọng và hiển hách so với các vị anh hùng dân tộc như Đại đế Quang Trung, Lê-Thái-Tổ. Ngài là vị anh hùng đuổi quân xâm lăng Mông cổ, chứ không phải chỉ là một vị linh thần như một số người hiểu lầm dưới một khía-cạnh đánh phạt tà-ma cứu nhân độ thế với uy hiệu là Đức Thánh Trần.


Cụ Nguyễn Công Trứ có làm một bài ca trù vịnh Trần Đoàn như sau: 
Sườn non bầu rượu túi thơ 
Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An 
Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi 
Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn 
Mấy mươi năm trong cuộc bùn than 
Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo 
Hà vật lão ẩu 
Nặng trên vai hai chúa thái bình 
Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh 
Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo 
Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu 
Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường 
Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang 
Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả 
Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã 
Luy trần bất đáo thử giang san 
Trời riêng cho một cuộc nhàn. 
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông. 
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau: 
Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất. 
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”. 
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh những hai vị thiên tử sao?” 
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng. 
Hậu Chu là gì? 
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm năm đã mất. 
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành. 
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”. 
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu. 
Gốc thông hỏi chú học trò 
Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa 
Chỉ trong dẫy núi đây mà 
Mây che mù mịt biết là nơi nao 
(Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ). 
Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ? 
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn. 
Bài tựa viết như sau: 
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh. 
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”. 
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy. 
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”. 
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia làm 4 tập: 
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận - Đẩu số chuẩn thắng - Tục hình tinh phú – Phát vi luận - Đẩu số cốt tủy chú giải - Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải - Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận - Định phú cục - Định quí cục - Định bần tiện cục - Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách - Luận cách tinh số cao hạ - Luận nhân tính cách hà như - Luận nam nữ mệnh đồng dị - Luận tiểu nhi mệnh - Định tiểu nhi thời sinh quyết - Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung - Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu - Luận mệnh tiền bần hậu phú - Luận đại hạn thập niên họa phúc hà như - Luận nhi hạn thái tuế cát hung - Luận hành hạn phân nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát - Luận kinh đà diệt tính - Luận thất sát trùng phùng - Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chi sở kỵ quyết - Luận lập mệnh hành hạn cung ca - Luận thái tuế tinh thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung - Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ. 
Tập hai dạy cách lấy số an các sao. 
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê. 


Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh. 


NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT 
Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”... Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình trạng. 
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt. 
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả? 
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ - Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương - Thất Sát – Phá Quân 
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc - Tả Phụ - Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã - Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ - Thiên Không - Địa Kiếp – Thiên Thương – Thiên Sứ - Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì - Phượng Các – Thai Phụ - Phong Các - Hồng Loan – Thiên Hỉ - Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu - Đẩu Quân. 
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị: 
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị. 
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao: Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ - Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù – Thiên Giải - Địa Giải - Giải Thần - Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần - Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc. 
Tổng cộng lại là 104 vị. 
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần - Địa Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi. 
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu. 
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ - Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc - Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi. 
Các sao: Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt gọi là Thiên diệu. 
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá. 
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu. 
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa. 
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà. 
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử - Tướng, Phủ - Tướng, Nhật - Nguyệt, Tả - Hữu, Xương – Khúc, Không - Kiếp, Hỏa – Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt. 
- Tam hợp là gì? 
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất. 
- Lục xung là gì? 
Tý - Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão - Dậu xung, Thìn - Tuất xung, Tị - Hợi xung. 
- Thủ đồng là gì? 
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy. 
- Lâm - Nhập là gì? 
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập. 
- Miếu – Hãm là gì? 
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ. 
- Tọa - Cứ là gì? 
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào. 
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào. 
- Bản phương - Hợp phương – Lân phương là gì? 
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi. 
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão. 
- Triều và xung là gì? 
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng. 
- Giáp - Chiếu - Hiệp là gì? 
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp. 
Ví dụ: giáp Nhật - Nguyệt, giáp Tả - Hữu 
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại. 
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho bất cứ sao nào. 
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp. 
TỨ YẾU - THẬP DỤ - BÁT PHÁP 
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt: 
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược. 
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa. 
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát. 
- Chia chủ khách ra sao? 
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung. 
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng. 
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu: 
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra. 
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ. 
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc. 
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập. 
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ. 
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới. 
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ. 
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại. 
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu. 
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát. 
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau: 
A. Thành phá tứ pháp: 
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp: 
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước). 
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt). 
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ). 
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá). 
B. Cửu khí tứ pháp: 
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu: 
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”. 
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hử mộc nan điêu”. 
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”. 
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời. 
CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN 
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải. Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa. 
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối?”. 
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy. 
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng. 
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát. 
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ sai đi một dặm. 
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra. 
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán. 
Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát. 

Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng: 
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được). 
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất. 
Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.